Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hòa giải ở cơ sở
Ngày đăng: 19/03/2014 09:16
Hôm nay: 0
Hôm qua: 0
Trong tuần: 0
Tất cả: 0
Ngày đăng: 19/03/2014 09:16
Ngày 27/2/2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 15/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hòa giải ở cơ sở, gồm một số nội dung cơ bản sau:
Nghị định đã quy định cụ thể trách nhiệm của UBND các cấp trong quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở như: Hướng dẫn, tổ chức thực hiện văn bản pháp luật về hòa giải ở cơ sở trong phạm vi địa phương; biên soạn, hỗ trợ tài liệu phục vụ công tác hòa giải ở cơ sở; phối hợp với các đơn vị liên quan trong việc tổ chức tập huấn, bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ thực hiện công tác quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở, cập nhật kiến thức pháp luật, kỹ năng, nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở cho hòa giải viên; hướng dẫn, lồng ghép thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở vào xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của thôn, làng, bản, ấp, cụm dân cư; cung cấp thông tin miễn phí về chính sách, pháp luật liên quan cho tổ chức, cá nhân; phối hợp với UBMTTQ Việt Nam cấp xã hướng dẫn thành lập, kiện toàn tổ hòa giải và công nhận, cho thôi tổ trưởng tổ hòa giải, hòa giải viên.
Nghị định cũng đã quy định chi tiết về phạm vi hòa giải ở cơ sở tại Điều 3 của Luật Hòa giải ở cơ sở, theo đó phạm vi hòa giải cơ sở được tiến hành đối với các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật như: Mâu thuẫn giữa các bên (do khác nhau về quan niệm sống, lối sống, tình tình không hợp hoặc mâu thuẫn trong việc sử dụng lối đi qua nhà, lối đi chung, sử dụng điện, nước sinh hoạt, công trình phụ, giờ giấc sinh hoạt, gây mất vệ sinh chung hoặc các lý do khác); tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự như tranh chấp về quyền sở hữu, nghĩa vụ dân sự, hợp đồng dân sự, thừa kế, quyền sử dụng đất; tranh chấp phát sinh từ quan hệ hôn nhân và gia đình như tranh chấp phát sinh từ quan hệ giữa vợ, chồng; quan hệ giữa cha mẹ và con; quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa anh, chị, em và giữa các thành viên khác trong gia đình; cấp dưỡng; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi, ly hôn; vi phạm pháp luật mà theo quy định của pháp luật những việc vi phạm đó chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, xử lý vi phạm hành chính... Đồng thời, cũng quy định các trường hợp vụ, việc không thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở, giải quyết các trường hợp vụ, việc không thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở. Nghị định quy định trong trường hợp chưa xác định được vụ, việc có thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở hay không thì hòa giải viên đề nghị công chức Tư pháp - Hộ tịch hướng dẫn.
Về hoạt động hòa giải ở cơ sở tại Điều 22 của Luật Hòa giải ở cơ sở, Nghị định hướng dẫn: Trong trường hợp các bên ở thôn, tổ dân phố khác nhau, thì tổ trưởng tổ hòa giải hoặc hòa giải viên được phân công hòa giải ở các thôn, tổ dân phố đó phối hợp, trao đổi thông tin, bàn về biện pháp tiến hành hòa giải và thông báo với Trưởng ban công tác Mặt trận tại nơi đó cùng phối hợp giải quyết. Các hòa giải viên cùng tiến hành hòa giải và thông báo kịp thời với tổ trưởng tổ hòa giải về kết quả hòa giải.
Về trách nhiệm trong việc theo dõi, đôn đốc thực hiện hòa giải thành, hòa giải viên, tổ trưởng tổ hòa giải có trách nhiệm thực hiện theo Điều 26 của Luật hòa giải ở cơ sở. Trong trường hợp tổ trưởng tổ hòa giải báo cáo có vấn đề phát sinh khi thực hiện thỏa thuận hòa giải thành, thì Trưởng ban công tác Mặt trận chủ trì, phối hợp với trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố, gia đình, dòng họ, người có uy tín vận động, thuyết phục, có biện pháp giải quyết kịp thời vấn đề phát sinh đó.
Đối với các trường hợp hòa giải không thành được quy định tại Điều 27 của Luật Hòa giải ở cơ sở Nghị định chỉ rõ: Khi các bên không đạt được thỏa thuận và cả hai bên yêu cầu tiếp tục hòa giải, thì hòa giải viên tiếp tục tiến hành hòa giải còn trong trường hợp các bên không đạt được thỏa thuận và một bên yêu cầu tiếp tục hòa giải, nhưng có căn cứ cho rằng việc tiếp tục hòa giải không thể đạt kết quả thì hòa giải viên quyết định kết thúc hòa giải theo quy định tại Khoản 3 Điều 23 của Luật Hòa giải ở cơ sở và hướng dẫn các bên đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, để đảm bảo việc theo dõi hoạt động hòa giải ở cơ sở Nghị định đã quy định các nội dung cụ thể trong việc thiết lập sổ theo dõi hoạt động hòa giải ở cơ sở, bao gồm: Ngày, tháng, năm nhận vụ, việc hòa giải; họ, tên, tuổi, địa chỉ của các bên, người có liên quan đến vụ, việc hòa giải; họ, tên của hòa giải viên, người được mời tham gia hòa giải (nếu có); nội dung chủ yếu của vụ, việc và yêu cầu của các bên; kết quả hòa giải; chữ ký của hòa giải viên, người chứng kiến việc hòa giải và người được mời tham gia hòa giải (nếu có). Sau khi kết thúc hòa giải, hòa giải viên có trách nhiệm ghi nội dung vụ, việc hòa giải vào sổ theo dõi hoạt động hòa giải ở cơ sở và chịu trách nhiệm về tính chính xác của nội dung ghi sổ. Tổ trưởng tổ hòa giải có trách nhiệm lưu giữ, đôn đốc việc ghi Sổ theo dõi hoạt động hòa giải ở cơ sở.
Ngoài ra, Nghị định cũng đã dành 1 chương quy định chi tiết về kinh phí phí hỗ trợ cho công tác hòa giải ở cơ sở như: Chi hỗ trợ để mua văn phòng phẩm; mua, sao chụp tài liệu phục vụ hoạt động của tổ hòa giải; tổ chức các cuộc họp, sơ kết, tổng kết hoạt động của tổ hòa giải. Chi thù lao cho hòa giải viên theo vụ, việc; chi hỗ trợ cho hòa giải viên khi gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải. Điều kiện được hưởng thù lao theo vụ, việc của hòa giải viên; thủ tục thanh toán thù lao cho hòa giải viên. Trường hợp hòa giải viên được hỗ trợ khi gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải.
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25/04/2014 và thay thế Nghị định số 160/1999/NĐ-CP ngày 18/10/1999 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải cơ sở./.
Thủy Lợi
23/05/2025 10:46:38
14/05/2025 10:50:38
22/04/2025 07:57:18