Một số điểm mới của Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015
Ngày đăng: 19/02/2016 10:06
Hôm nay: 0
Hôm qua: 0
Trong tuần: 0
Tất cả: 0
Ngày đăng: 19/02/2016 10:06
Ngày 24/6/2015, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật Kiểm toán nhà nước (sửa đổi), (sau đây gọi là Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2016, thay thế cho Luật Kiểm toán nhà nước năm 2005). Luật gồm 9 chương, 73 điều (tăng 1 chương, giảm 3 điều, bổ sung 11 điều mới và bỏ 14 điều so với Luật Kiểm toán nhà nước năm 2005), quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động của Kiểm toán nhà nước; nhiệm vụ, quyền hạn của Tổng Kiểm toán nhà nước; nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm toán viên nhà nước; quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đối với hoạt động kiểm toán nhà nước. So với Luật Kiểm toán nhà nước năm 2005, Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015 có những điểm mới cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về phạm vi và đối tượng kiểm toán
Khoản 1 Điều 118 Hiến pháp năm 2013 quy định, nhiệm vụ của Kiểm toán nhà nước là “thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công”. Cụ thể hóa quy định này của Hiến pháp, Điều 4 Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015 quy định: “Đối tượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước là việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công và các hoạt động có liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công của đơn vị được kiểm toán.”. Luật cũng đã quy định rõ tại Điều 3 về nội dung tài chính công, tài sản công theo phạm vi kiểm toán của Kiểm toán nhà nước.
Thứ hai, về giá trị pháp lý của báo cáo kiểm toán
Báo cáo kiểm toán của Kiểm toán nhà nước là văn bản do Kiểm toán nhà nước lập và công bố để đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị về những nội dung đã kiểm toán, việc quy định giá trị pháp lý của báo cáo kiểm toán có ý nghĩa quan trọng đối với đơn vị được kiểm toán cũng như các cơ quan, tổ chức sử dụng trong hoạt động của mình. Báo cáo kiểm toán của Kiểm toán nhà nước sau khi phát hành và công khai có giá trị bắt buộc phải thực hiện đối với đơn vị được kiểm toán về sai phạm trong việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Luật cũng quy định báo cáo kiểm toán của Kiểm toán nhà nước là căn cứ để Quốc hội, Chính phủ, cơ quan, tổ chức sử dụng trong công tác quản lý, điều hành và thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của mình và là căn cứ để đơn vị được kiểm toán thực hiện quyền khiếu nại (Điều 7).
Để tương thích với quy định này, một số nội dung liên quan trong Luật được sửa đổi cho phù hợp như: thay quyền “kiến nghị” của đơn vị được kiểm toán về đánh giá, xác nhận và kiến nghị kiểm toán trong báo cáo kiểm toán thành quyền “khiếu nại”, trách nhiệm của Tổng Kiểm toán nhà nước về giải quyết “kiến nghị” của đơn vị được kiểm toán thành trách nhiệm giải quyết “khiếu nại”; quy định về khiếu nại và trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại trong hoạt động Kiểm toán nhà nước.
Thứ ba, về Tổng Kiểm toán nhà nước
Khoản 2 Điều 118 Hiến pháp năm 2013 quy định về Tổng Kiểm toán nhà nước: “Tổng Kiểm toán nhà nước là n
Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015 còn bổ sung một số quyền và nhiệm vụ của Tổng Kiểm toán nhà nước đã được quy định trong Hiến pháp và các luật liên quan như: Quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đối với Phó Tổng Kiểm toán nhà nước; thay thế quy định trách nhiệm giải quyết kiến nghị về báo cáo kiểm toán bằng quy định giải quyết khiếu nại có liên quan đến hoạt động kiểm toán của Kiểm toán nhà nước.
Thứ tư, về thời hạn kiểm toán
Luật năm 2005 không quy định cụ thể về thời hạn kiểm toán mà chỉ quy định “Thời hạn của cuộc kiểm toán được tính từ ngày công bố quyết định kiểm toán đến khi kết thúc việc kiểm toán tại đơn vị được kiểm toán”. Việc không quy định cụ thể về thời hạn kiểm toán có thể gây khó khăn cho hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khắc phục hạn chế này của Luật năm 2005, Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015 đã quy định thời hạn cụ thể về thời hạn kiểm toán, theo đó, thời hạn của một cuộc kiểm toán không quá 60 ngày. Trường hợp phức tạp, cần thiết kéo dài thời hạn kiểm toán thì Tổng Kiểm toán nhà nước quyết định gia hạn một lần, thời gian gia hạn không quá 30 ngày. Đối với cuộc kiểm toán để đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý và sử dụng tài chính công, tài sản công có quy mô toàn quốc, Tổng Kiểm toán nhà nước quyết định cụ thể về thời hạn kiểm toán cho phù hợp (Điều 34).
Thứ năm, về công khai kết quả kiểm toán và kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán
Nhằm tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân giám sát hoạt động của Kiểm toán nhà nước và việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công của các cơ quan, tổ chức; giám sát việc chấp hành kiến nghị kiểm toán của các đơn vị được kiểm toán, Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015 quy định, báo cáo kiểm toán sau khi phát hành, báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán năm và báo cáo kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán nhà nước sau khi báo cáo Quốc hội được Tổng Kiểm toán nhà nước công bố công khai thông qua một hoặc một số hình thức sau: Họp báo; công bố trên Công báo và phương tiện thông tin đại chúng; đăng tải trên Trang thông tin điện tử và các ấn phẩm của Kiểm toán nhà nước. Đối với báo cáo kiểm toán còn có thể được niêm yết tại trụ sở của đơn vị được kiểm toán. Hình thức niêm yết báo cáo kiểm toán tại trụ sở của đơn vị được kiểm toán là một quy định mới của Luật năm 2015 (Điều 50, Điều 51).
Thứ sáu, về đơn vị được kiểm toán
Do phạm vi kiểm toán mở rộng theo quy định của Hiến pháp nên bên cạnh những đơn vị được kiểm toán như quy định của Luật năm 2005, Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015 bổ sung thêm 02 đơn vị được kiểm toán là cơ quan quản lý sử dụng nợ công và doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ; đối với doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ từ 50% vốn điều lệ trở xuống, khi cần thiết, Tổng Kiểm toán nhà nước quyết định lựa chọn mục tiêu, tiêu chí, nội dung và phương pháp kiểm toán phù hợp (Điều 55).
Thứ bảy, về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đối với hoạt động của kiểm toán nhà nước
Chương VII quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với hoạt động kiểm toán nhà nước của Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015 là chương mới được bổ sung so với Luật năm 2005. Theo đó, chương này quy định cụ thể về trách nhiệm của: Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, cơ quan tổ chức trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công và cơ quan, tổ chức cá nhân có liên quan trong hoạt động kiểm toán… đối với hoạt động kiểm toán nhà nước. Quy định này nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân đối với hoạt động của Kiểm toán nhà nước; đồng thời nâng cao chất lượng công tác kiểm toán, góp phần sử dụng hiệu quả hơn kết quả kiểm toán của Kiểm toán nhà nước.
Duy Bình
23/05/2025 10:46:38
14/05/2025 10:50:38
22/04/2025 07:57:18