NGÀNH TƯ PHÁP VIỆT NAM - 68 NĂM XÂY DỰNG VÀ TRƯỞNG THÀNH (28/8/1945 - 28/8/2013)
Ngày đăng: 28/08/2013 16:57
Hôm nay: 0
Hôm qua: 0
Trong tuần: 0
Tất cả: 0
Ngày đăng: 28/08/2013 16:57
Ngay từ những ngày đầu sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945 lịch sử, ngày 28/8/1945 Bộ Tư pháp chính thức được thành lập - là 1 trong 12 Bộ của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, đã giúp Chính phủ đặt những “viên gạch” đầu tiên xây dựng Nhà nước dân chủ của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đến năm 1995, ngày 28/8 hàng năm chính thức trở thành “Ngày Truyền thống của Ngành Tư pháp Việt Nam” (theo Quyết định số 715 Thủ tướng Chính phủ).
Trải qua 68 năm xây dựng và trưởng thành, ngành Tư pháp đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, không ngừng trưởng thành và lớn mạnh, góp phần quan trọng và thiết thực vào quá trình hình thành, củng cố và hoàn thiện nền tảng chính trị - pháp lý để xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, đặc biệt là việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, các thiết chế hành chính tư pháp và bổ trợ tư pháp, vì một nền tư pháp độc lập, trong sạch, phụng sự công lý, phục vụ nhân dân.
Trong suốt chặng đường đã qua, ngành Tư pháp luôn bám sát nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước giao và tập trung trí tuệ, sức lực để thực hiện đồng bộ, sâu rộng các lĩnh vực công tác của ngành: xây dựng và thi hành pháp luật; kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hoá văn bản QPPL; phổ biến, giáo dục pháp luật; trợ giúp pháp lý; thi hành án dân sự; quản lý Nhà nước trong các lĩnh vực hành chính tư pháp và bổ trợ tư pháp; kiểm soát thủ tục hành chính hướng dẫn công tác pháp chế các Bộ, ngành, địa phương; đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp lý; hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp... và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, Bộ Tư pháp đã góp phần tích cực vào việc soạn thảo các bản Hiến pháp của Nhà nước ta qua từng thời kỳ cách mạng, từ Hiến pháp đầu tiên năm 1946 - đặt nền móng cho hệ thống pháp luật mới thể hiện bản chất dân chủ nhân dân của Nhà nước ta - đến Hiến pháp năm 1992; trong 15 năm đầu của Nhà nước dân chủ nhân dân (1946 - 1960), ngành Tư pháp đã nỗ lực xây dựng nền tảng pháp luật theo những nguyên tắc dân chủ, tiến bộ, góp phần quan trọng vào thành công của cuộc kháng chiến gian khổ, trường kỳ của dân tộc và đường lối xây dựng kinh tế trong những năm đầu lập lại hoà bình ở miền Bắc; sau khi tái lập lại (từ năm 1960 đến năm 1980, theo Luật Tổ chức Chính phủ, trong thành phần Chính phủ không có Bộ Tư pháp, các nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về quản lý tổ chức và hoạt động của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được chuyển giao cho Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao và một phần cho chính quyền địa phương) - Bộ đã chủ trì soạn thảo những bộ luật, luật lớn có tính nền tảng của hệ thống pháp luật Việt Nam như Bộ luật Hình sự 1986, 1999; Bộ luật Tố tụng hình sự 1988; Luật Hôn nhân và Gia đình 1986, 2000; Bộ luật Dân sự năm 1995, 2005; Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 1997, 2000... đã đánh dấu một bước phát triển quan trọng về trình độ lập pháp của Nhà nước ta, tạo điều kiện thuận lợi cho việc soạn thảo các luật, bộ luật khác.
Rà soát, hệ thống hoá văn bản QPPL luôn là một lĩnh vực công tác quan trọng của ngành, Bộ Tư pháp đã tham mưu ban hành nhiều chỉ thị về công tác này, như Chỉ thị 166 /HĐBT (tháng 6/1989), Chỉ thị 51/TTg (tháng 11/1997)… và được giao trách nhiệm là thường trực của Ban chỉ đạo thực hiện các chỉ thị đó, qua đó góp phần quan trọng đưa công tác hệ thống hoá pháp luật đi vào nề nếp; hàng trăm ngàn văn bản đã được tổ chức pháp chế các Bộ, ngành, cơ quan Tư pháp địa phương rà soát; hàng chục ngàn văn bản đã được đề nghị huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung, góp phần khắc phục, giảm bớt những mâu thuẫn, chồng chéo, lạc hậu trong hệ thống pháp luật.
Công tác kiểm tra văn bản QPPL bắt đầu được triển khai từ năm 2004 (theo Nghị định 135 của Chính phủ). Tuy là nhiệm vụ mới, nhưng toàn ngành đã tổ chức thực hiện với tinh thần tích cực, khẩn trương; đến nay nhiều tỉnh, thành trong cả nước đã thành lập Phòng Kiểm tra văn bản QPPL; tiếp nhận và kiểm tra hàng trăm ngàn văn bản, qua đó đã phát hiện được nhiều văn bản có dấu hiệu trái pháp luật và thông báo, kiến nghị xử lý theo quy định, tạo sự thống nhất chung trong thực thi pháp luật.
Công tác tuyên truyền, PBGDPL ngày càng được chú trọng và hướng mạnh về cơ sở, là cơ quan thường trực của Hội đồng phối hợp công tác PBGDPL từ trung ương đến địa phương, ngành Tư pháp đã góp phần quan trọng trong việc xây dựng thói quen, ý thức “Sống và làm việc theo pháp luật” của mọi tầng lớp nhân dân; cùng với sự nỗ lực của ngành công tác này đã được nhận thức đầy đủ hơn về vai trò, vị trí, được nâng cao hơn về chất lượng, đa dạng, phong phú hơn về hình thức, góp phần ngày càng nâng cao ý thức pháp luật của người dân, trở thành một bộ phận không thể thiếu trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Đến nay cả nước đã xây dựng được 167.044 tủ sách pháp luật (trong đó có 71.209 tủ sách ở xã, phường, thị trấn), mỗi năm phục vụ hàng chục triệu lượt người đọc; xây dựng được một lực lượng đông đảo cán bộ tham gia công tác này đến tận thôn, buôn, tổ dân phố, với 19.361 báo cáo viên pháp luật, 86.825 tuyên truyền viên pháp luật; 111.515 Tổ hoà giải (với 559.432 hoà giải viên).
Công tác trợ giúp pháp lý được ngành chính thức triển khai từ năm 1997 (theo Quyết định 734 của Thủ tướng Chính phủ), đến nay, đã xây dựng được một hệ thống mạng lưới từ Trung ương đến địa phương: Cục Trợ giúp pháp lý thuộc Bộ Tư pháp, 63 Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thuộc các Sở Tư pháp, 187 Chi nhánh trợ giúp pháp lý; hơn 4.500 Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý và 9.500 cộng tác viên trợ giúp pháp lý, trung bình mỗi năm đã trợ giúp khoảng 81.000 vụ việc cho 80.000 lượt người, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu trợ giúp, tư vấn pháp luật của các đối tượng thụ hưởng chính sách trợ giúp pháp lý miễn phí; góp phần làm lành mạnh môi trường pháp lý - xã hội.
Công tác quản lý Toà án địa phương do Bộ Tư pháp đảm nhiệm trong các giai đoạn 1945 - 1958 và 1981 - 9/2002, cùng với sự phát triển, đi lên của đất nước, các toà án nhân dân địa phương, các toà án quân sự khu vực, quân khu... trong các giai đoạn này đã được củng cố và phát triển về mọi mặt, có những đóng góp to lón trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chế độ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân.
Năm 1981, sau khi Bộ Tư pháp được tái lập lại, công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực hành chính tư pháp và bổ trợ tư pháp được bàn giao từ Bộ Ngoại giao và Bộ Nội vụ sang Bộ Tư pháp... đến nay đã đi vào nề nếp, hoạt động ổn định, hiệu quả; công tác quốc tịch, nuôi con nuôi, chứng thực, hộ tịch, lý lịch tư pháp, thi hành án dân sự, đăng ký giao dịch bảo đảm... đã được triển khai khá đồng bộ trong cả nước, ngày càng đáp ứng kịp thời các yêu cầu của người dân, tổ chức. Hoạt động quản lý Nhà nước về luật sư và tư vấn pháp luật, giám định tư pháp đã được hoàn thiện về thể chế văn bản, đội ngũ cũng được phát triển mạnh về số lượng và chất lượng, góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội và giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Hoạt động hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật của ngành đã ngày càng mở rộng hơn, phát huy được hiệu quả, góp phần tích cực vào việc thực hiện các đường lối và quan điểm chính trị của Đảng trên các lĩnh vực về Nhà nước và pháp luật, phục vụ thiết thực cho công việc Tư pháp trong nước, xác lập vị trí và uy tín của Tư pháp Việt Nam trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.
Trong suốt 68 năm xây dựng và trưởng thành, ngành Tư pháp luôn coi công tác cán bộ là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, đến nay, ngành đã có một hệ thống tổ chức chặt chẽ từ Trung ương đến cấp xã, đội ngũ cán bộ đông đảo về số lượng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ đang ngày càng được nâng cao, với gần 30.000 cán bộ công chức, viên chức; trong đó, tổng số công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã là 14.920 người (tương ứng 1,4 công chức/xã), 34,5% số xã trong cả nước có từ 2 công chức Tư pháp - Hộ tịch trở lên. Bên cạnh đó, công tác đào tạo tiếp tục được mở rộng và nâng cao, hệ thống các Trường Đại học, Trung cấp trực thuộc Bộ Tư pháp: Trường Đại học Luật Hà Nội (được thành lập năm 1979 trên cơ sở sáp nhập Trường Cao đẳng Pháp lý và Khoa Pháp lý thuộc Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội), Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (được thành lập năm 1987 trên cơ sở sáp nhập cơ sở 2 của Đại học Luật Hà Nội và Khoa Luật Trường Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh), Học viện Tư pháp (được thành lập năm 2002 trên cơ sở Trường đào tạo các chức danh tư pháp); Trường Trung cấp Luật Buôn Ma Thuột (tỉnh Đắk Lắk - thành lập năm 2009), Trường Trung cấp Luật Vị Thanh (tỉnh Hậu Giang - năm 2010), Trường Trung cấp Luật Thái nguyên (tỉnh Thái Nguyên - năm 2011), Trường Trung cấp Luật Đồng Hới (tỉnh Quảng Bình - thành lập tháng 6/2012) và trường Trung cấp Luật Tây Bắc (tỉnh Sơn La – thành lập tháng 7/2012)... đã và đang tiếp tục đào tạo các thế hệ cán bộ của ngành Tư pháp, bồi dưỡng cán bộ có chức danh tư pháp, người làm công tác tư pháp, góp phần thiết thực vào sự thành công trong chiến lược cải cách Tư pháp và hội nhập quốc tế của Nhà nước ta hiện nay...
Đặc biệt, trong những năm gần đây ngành tư pháp đã được Đảng và Nhà nước tin tưởng giao thêm nhiều nhiệm vụ như theo dõi thi hành pháp luật, kiểm soát thủ tục hành chính, quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính... đây là những lĩnh vực công tác mới, có tầm quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hành chính nhà nước
Với những cống hiến to lớn và thiết thực của các thế hệ cán bộ, công chức, viên chức ngành Tư pháp, trong những năm qua, hàng trăm tập thể, cá nhân trong ngành đã được tặng thưởng huân chương các loại và nhiều danh hiệu khen thưởng cao quý. Đặc biệt, năm 1995, Bộ Tư pháp vinh dự được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh và năm 2010 - vào dịp kỷ niệm 65 năm Ngày truyền thống ngành Tư pháp, Bộ Tư pháp đã được nhận Huân chương sao vàng - phần thưởng cao quý nhất của Đảng, Nhà nước ta trao tặng. Đây chính là sự ghi nhận của Đảng, Nhà nước và nhân dân về công lao của tập thể và nhiều thế hệ cán bộ, công chức, viên chức của ngành đã trung thành, sáng tạo, tận tuỵ cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, có những đóng góp quan trọng vào thắng lợi chung của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Ban biên tập
23/05/2025 10:46:38
14/05/2025 10:50:38
22/04/2025 07:57:18